Ngày nay, với độ phủ sóng của làn sóng văn hóa Hàn Quốc, không khó để tìm ra một người biết nói xin chào bằng tiếng Hàn Quốc. Câu trả lời mà trung tâm tiếng Hàn SOFL nhận được chính là 안녕하세요?- an-nyeong-ha-sê-yô.Rất nhiều bạn tự tin khi chào bằng tiếng Hàn Quốc, song nếu hỏi sâu hơn về đối tượng chào với những cách chào khác nhau, hay tư thế khi chào, biểu hiện thái độ... thì nhiều bạn tỏ ra lúng túng và không biết.
Nhấc điện thoại, gọi đồ ở Hàn Quốc
Khi nói chuyện qua điện thoại, người Hàn Quốc thường sử dụng câu “여보세요!” như lời chào mở đầu Ngoài ra, khi muốn gọi đồ hoặc gây sự chú ý với ai đó trong nhà hàng, quán ăn, người trẻ tuổi ở Hàn Quốc hay sử dụng “저기요!” hoặc “여기요!”. Dưới đây là một số câu xin chào tiếng Hàn khi nhấc điện thoại hoặc gọi đồ thường được sử dụng, các bạn hãy tham khảo:
Xin chào, ai ở đầu dây bên kia thế ạ!
Yeogiyo! Menyupan jom gajyeoda juseyo.
Xin chào! Hãy mang cho tôi thực đơn đến đây.
Xin chào! Hãy cho tôi một cốc nước.
Anh/Chị ơi! Chỗ này còn trống không?
Jeogiyo! Siksa menyoo eotteon ge masisseoyo?
Bạn ơi! Món ăn nào ngon nhất trong thực đơn?
Khi hai người mới gặp mặt lần đầu tiên, ngoài các câu chào tiếng Hàn thông dụng như “안녕하세요?”, “안녕하십니까?”, chúng ta có thể sử dụng câu sau để thể hiện sự hiếu khách và thân thiện, đồng thời mở đầu cuộc nói chuyện trở nên thú vị hơn:
Rất vui được gặp bạn. (cách chào hỏi trang trọng, kính trọng)
Rất vui được biết bạn. (cách chào hỏi gần gũi, thân mật)
Người Hàn Quốc thường dành cho nhau những câu chào tạm biệt trước khi đi ngủ vừa thân mật vừa lịch sự như sau:
Chúc ngủ ngon. (cách nói thể hiện tôn trọng, lịch sự)
Chúc ngủ ngon. (cách nói thể hiện lịch sự, tôn trọng)
Ngủ ngon nhé. (cách nói thân thiết, thân mật)
Xin chào tiếng Hàn khi tạm biệt
(pyong-an-hi ka-sip-si-ô): Đi đường bình an nhé
(an-nyong-hi ka-sê-yô): Tạm biệt (đi đường bình an)
(an-nyong-hi kye-sê-yô): Tạm biệt (ở lại bình an)
(ka-ya-kêt-sưm-ni-ta): Tôi phải đi rồi
Cẩm nang học tiếng hàn online hiệu quả
Gửi lời xin chào đến người vắng mặt
Nếu muốn hỏi thăm sức khỏe hoặc gửi lời chào hỏi đến với người vắng mặt, người lớn tuổi trong cuộc đối thoại, ta cần sử dụng từ “안부” (dịch sang tiếng Hàn mang nghĩa là vấn an). Hãy tham khảo và học một số câu gửi lời xin chào phổ biến với từ “안부” dưới đây nhé:
Chin-gu-ege anbu jeonhae juseyo.
Cho tôi gửi lời chào đến bạn của bạn nhé!
Sosigi eobseoseo geokjeongieyo. Nuna anbu jom jeonhaejuseyo.
Tôi lo lắng vì không có tin tức. Hãy chuyển lời hỏi thăm tình trạng đến chị gái giúp tôi nhé.
Halmeonikke anbu jeonhae deuriseyo.
Xin chuyển lời hỏi thăm sức khỏe đến bà giúp tôi nhé.
Seonsaeng-nimege anbu jeondalhae juseyo.
Hãy gửi lời hỏi thăm tình trạng đến giáo viên giúp tôi nhé.
Hyeong-ege anbu jeonhae jusillaeyo?
Bạn có thể gửi lời chào đến anh trai giúp tôi được không?
Ngành dịch vụ luôn cần chu đáo trong cách phục vụ và thể hiện sự trang trọng, lịch sự khi chào hỏi khách hàng. Ngoài những câu chào hàng ngày ở trên thì câu 안녕하십니까 (xin kính chào quý khách) thì người Hàn Quốc còn sử dụng một số câu xin chào viết bằng tiếng Hàn cùng phiên âm như sau:
(Cách chào hỏi khách hàng lịch sự, trang trọng, thường được sử dụng ở trong khách sạn, nhà hàng, sân bay.)
(Cách chào hỏi thể hiện sự trang trọng, lễ nghi)
(Cách chào hỏi khách hàng mang sắc thái thân mật, gần gũi, có thể sử dụng với khách quen, khách gần nhà.)
(Sử dụng để mời chào khách tới cửa hàng, khách sạn hay sử dụng dịch vụ bất kỳ)
(Câu chào hỏi chung để đón khách hàng đến một nơi hoặc sự kiện đặc biệt, như hội chợ, triển lãm, khách sạn, hay khu nghỉ dưỡng.)
Một số câu xin chào tiếng Hàn thông dụng khác
Giống như tiếng Việt, không chỉ có câu “Xin chào” mà trong thực tế chúng ta có thể sử dụng rất nhiều cách chào khác nhau như “ Chào bác/cô”, “Lâu rồi mới gặp”, “Một ngày tốt lành!”, “Khỏe không”… Trong tiếng Hàn cũng vậy, khi giao tiếp thân thiết với nhau sẽ dùng nhiều kiểu câu chào khác nhau như sau:
Chúc cậu một ngày tốt lành nhé.
Chúc cậu một buổi sáng tốt lành nhé.
Xin chào trong tiếng Hàn khi lần đầu gặp mặt
(man-na-so ban-ka-wo): Rất vui được gặp bạn.
(man-na-so ban-kap-sưm-ni-ta): Rất vui được gặp bạn.
(cho-ưm byep-kết-sưm-ni-tà): Rất vui lần đầu tiên gặp bạn.
(buyep-kê-tuê-o-yong-koang-im-ni-ta): Thật vinh hạnh khi được gặp bạn
(al-kê tuê-o te-tan-hi ki-ppưm-ni-ta): Thật vui vì được biết bạn
(cho-tô man-na-so ban-kap-sưm-ni-ta): Tôi cũng vui khi được biết bạn
Để chào hỏi bạn có thể nói một câu hoàn chỉnh như sau : 안녕하세요? 만나서 반갑습니다 với ý nghĩa " Xin chào, rất vui được gặp bạn" thế là đã đủ lịch sự và trang trọng rồi nhé!
II. Tổng hợp các câu xin chào tiếng Hàn
Khi bắt đầu học tiếng Hàn Quốc, chào hỏi là một trong những điều căn bản đầu tiên mà chúng ta cần nắm vững để giao tiếp. Hãy cùng tìm hiểu các câu xin chào tiếng Hàn thông dụng trong từng hoàn cảnh khác nhau dưới đây để ứng dụng trong cuộc sống ngay nào!
Xin chào tiếng Hàn Quốc có 3 cách nói đó là “안녕하세요?”, “안녕하십니까?” hoặc “안녕”, tuy nhiên mỗi cách này đều có ý nghĩa dùng khác nhau, vì thế chúng mình cùng tìm hiểu để phân biệt và sử dụng chính xác nhé!
Xin chào (được sử dụng phổ biến nhất trong đời sống thường ngày)
Xin chào (được sử dụng trong các tình huống giao tiếp trang trọng, lễ nghi hay đối với người bậc trên)
Xin chào. (được sử dụng để chào thân mật với bạn bè, những người đồng trang lứa)
Chú ý: Ở cuối câu xin chào tiếng Hàn thường đi kèm theo dấu chấm hoặc dấu hỏi, ngụ ý muốn hỏi người đối phương rằng “Bạn có được bình an không?”. Tuy viết kèm dấu hỏi nhưng khi nói thì không lên giọng như câu hỏi mà chỉ diễn đạt bình thường.
IV. Những lưu ý khi chào hỏi người Hàn Quốc
Người Hàn Quốc rất coi trọng thái độ và cử chỉ lúc gặp gỡ và chào hỏi nhau. Thông thường, khi gặp mặt hay tạm biệt, họ thường chào nhau bằng cách cúi đầu. Trong những trường hợp đặc biệt, họ có thể chào bằng cách cúi lạy. Trong giao tiếp xã hội, họ chào nhau bằng cách bắt tay với đối phương. Cụ thể từng cách chào được sử dụng trong các trường hợp như sau:
Vậy là bạn đã biết xin chào tiếng Hàn là gì rồi đúng không nào! Bài viết trên đây đã tổng hợp 50+ câu xin chào tiếng Hàn có phiên âm chi tiết, đồng thời đưa ra những lưu ý khi chào hỏi người Hàn Quốc trong từng trường hợp cụ thể. Mong rằng đây sẽ là nguồn tài liệu hữu ích để bạn ứng dụng phù hợp trong giao tiếp xin chào bằng tiếng Hàn và ôn thi thật hiệu quả nhé!
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).
Đồng bào dân tộc Thái Yên Bái với nghề dệt truyền thống
Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…”
Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ.
Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.
Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện.
Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng.
Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp.
Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng.
Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác.
Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.
Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...
Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ...
Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn.
Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này.
Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim.
Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.
Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh.
(Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…” Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ. Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt. Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng. Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp. Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng. Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái. Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)... Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ... Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này. Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim. Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ. Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh. (Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).
Đồng bào dân tộc Thái Yên Bái với nghề dệt truyền thống
Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…”
Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ.
Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.
Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện.
Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng.
Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp.
Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng.
Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác.
Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.
Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...
Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ...
Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn.
Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này.
Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim.
Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.
Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh.
(Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…” Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ. Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt. Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng. Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp. Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng. Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái. Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)... Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ... Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này. Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim. Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ. Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh. (Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)